Theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định với hiệu lực của Tòa án. Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ chồng đồng thuận đi tới ly hôn, đã sở hữu sự thỏa thuận về chia tài sản và vấn đề nuôi con. Hoặc Tòa án xác nhận cho một bên ly hôn đơn phương khi xét thấy bên kia chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm quyền và nghĩa vụ vơ chồng làm hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bên cạnh quyền đề xuất giải quyết ly hôn của vợ, chồng thì Luật Hôn nhân và gia đình còn cho phép cha, mẹ người nhà thích khác mang quyền đề xuất Tòa án khắc phục ly hôn lúc một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm cho chủ được hành vi của mình, song song là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra khiến tác động đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Ly hôn tại Tòa án được thực hiện theo 2 giấy má là thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn.
Quyền ly hôn thuộc về 1 trong trong các quyền nhân thân của con người tại Bộ luật dân sự 2015.
Theo Điều 39 Bộ luật dân sự 2015:
“tư nhân sở hữu quyền hôn phối, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ ba má và con và quan hệ giữa những thành viên gia đình.”
Quyền nhân thân được quy định tại Bộ luật dân sự là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển ủy quyền người khác, trừ trường hợp luật khác có quy định khác. Bởi vậy trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình đứng ra ly hôn, bởi ly hôn cũng là 1 quan hệ dân sự gắn liền sở hữu nhân thân của mỗi người.
Tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
“Đối có việc ly hôn, đương sự ko được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha,mẹ, người thân thích khác đề xuất Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.”
Việc giao cho ra tòa thường được thực hiện bởi nguyên đơn, bị đơn, người với lợi quyền và bổn phận can hệ giao cho cho luật sư, chồng, vợ, các người thân thích khác tham gia tố tụng tại Tòa án. Theo quy định của luật pháp thì đó là việc đại diện.
Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về người đại diện như sau:
“1. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo luật pháp và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện sở hữu thể là tư nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.2. Người đại diện theo luật pháp theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị tránh quyền đại diện theo quy định của pháp luật.”
có hai trường hợp người đại diện được ghi nhận trong tố tụng dân sự là người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo giao cho. Người đại diện theo giao cho được nhận ủy quyền trong khoảng đương sự của mình tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự, bảo về quyền và ích lợi hợp pháp của đương sự trong khuôn khổ nội dung văn bản giao cho. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện.
Người đại diện theo pháp luât tham dự tố tụng sở hữu thể là:
– Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
– Người giám hộ đối có người được giám hộ. Người giám hộ của người sở hữu khó khăn trong nhận thức, làm cho chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định
– Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện
– Người do Tòa án chỉ định đối sở hữu người bị giảm thiểu năng lực hành vi dân sự. Chỉ trừ những trường hợp người đại diện đấy đang là người đại diện theo luật pháp tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và ích lợi hợp pháp của đương sự ấy đối chọi có quyền và ích lợi hợp pháp của người đang được đại diện trong cộng 1 vụ việc thì không được phép thực hiện hai quyền đại diện cộng 1 khi.
Như vậy, khi ly hôn, giả dụ đương sự mang lý do vắng mặt, chẳng thể đến dự phiên tòa xét xử đang ở nước ngoài hoặc những lý do hợp lệ khác được Tòa án chấp nhận cho vắng mặt có thể thông qua người đại diện theo pháp luật của mình tham dự tố tụng tại phiên tòa. Trong một số trường hợp vướng mắc trong việc hoàn thành các thủ tục, lúc này có thể giao cho cho trạng sư để thực hiện các công việc:
– ủy quyền thay mặt đương sự khắc phục vấn đề về tài sản trong vụ án ly hôn.
– giao cho trong việc nộp giấy má đóng phí.
“Hợp đồng ủy quyền là sư ký hợp đồng giữa các đối tác, theo đó bên được ủy quyền với nghĩa vụ thực hành công tác nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải báo thù lao nếu như với ký hợp đồng hoặc pháp luật sở hữu quy định” (Điều 562 Bộ luật dân sự 2015)
1. Hình thức giao cho
Việc đại diện theo giao cho trên thực tế diễn ra bằng phổ biến hình thức, bằng mồm, bằng hành vi cụ thể, tuy nhiên đối với những trường hợp quy định như vụ án ly hôn, việc giao cho nên được lập thành văn bản sở hữu giá trị pháp lý, mang chữ ký xác nhận của người ủy quyền và người được giao cho.
2. Nội dung ủy quyền
Người được ủy quyền thực hành công tác của mình trong khuôn khổ quyền hạn được giao và báo cho bên ủy quyền về việc thực hành công việc ấy. Trong quá trình thực hành côn việc có quyền yêu cầu bên ủy quyền phân phối thông báo, tài liệu và phương tiện thiết yếu để hoàn tất công việc. Người được ủy quyền tuyệt đối bảo mật thông báo được cung ứng lúc thực hiện ủy quyền, có bổn phận giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những ích lợi thu được khi mà thực hành việc giao cho theo ký hợp đồng hoặc theo quy định của luật pháp và sở hữu nghĩa vụ bồi thường thiệt hại giả dụ vi phạm phận sự.
3. Ủy quyền lại
Bên được ủy quyền được phép ủy quyền lại cho người khác trong những trường hợp:
– Được sự đồng ý của bên ủy quyền
– Do sự kiện bất kháng, sự kiện xảy ra khách quan không lường trước được và không khắc phục được dù rằng đã áp dụng mọi giải pháp thiết yếu, nếu như ko ủy quyền lại thì quyền lợi phận sự của người ủy quyền bị ảnh hưởng.
– Việc giao cho lại không vượt quá khuôn khổ ủy quyền ban đầu
– Hình thức hợp đồng giao cho lại phải phù hợp với hình thức giao cho ban sơ.
4. Kết thúc ủy quyền
giao kèo giao cho được xác lập hoàn toàn theo sự ký hợp đồng giữa các đối tác, cho nên việc chấm dứt hoàn toàn là do ý chí và sự định đoạt của các chủ thể dẫn tới việc kết thúc ấy.
ủy quyền kết thúc khi
– Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc đã hoàn tất
– tư nhân hoặc người đại diện theo luật pháp của tư nhân hủy bỏ việc giao cho hoặc chối từ nhận giao cho
– cá nhân được giao cho chết.
khi việc ủy quyền chấm dứt, người được ủy quyền sở hữu thể được hưởng thù lao tùy theo ký hợp đồng giữa các bên. Vậy, lúc ly hôn, đương sự không được phép ủy quyền cho 1 tư nhân khác thay mặt mình tham dự phiên tòa, việc ủy quyền hợp lệ lúc tư nhân được giao cho thực hành những công việc khác can hệ đến giấy tờ giấy má, và tranh chấp về tài sản để bảo vệ lợi quyền cho đương sự.